Scholar Hub/Chủ đề/#suy thai/
Suy thai là một thuật ngữ trong y học để chỉ tình trạng thai nghén hay suy dinh dưỡng của một bà bầu. Khi một bà bầu không được cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết...
Suy thai là một thuật ngữ trong y học để chỉ tình trạng thai nghén hay suy dinh dưỡng của một bà bầu. Khi một bà bầu không được cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của thai nhi, suy thai có thể xảy ra. Điều này có thể gây ra nhiều vấn đề cho cả thai nhi và người mẹ. Việc thực hiện kiểm soát dinh dưỡng và chăm sóc thai kỳ là rất quan trọng để ngăn chặn suy thai.
Suy thai có thể xảy ra khi thai nghén hoặc sự suy dinh dưỡng do không đủ dinh dưỡng để hỗ trợ sự phát triển và tăng trưởng của thai nhi. Điều này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm:
1. Dinh dưỡng thiếu: Khi bà bầu không nhận đủ lượng dinh dưỡng cần thiết, như protein, chất béo, vitamin và khoáng chất, sự phát triển và tăng trưởng của thai nhi có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
2. Suy gan hoặc suy thận: Suy gan hoặc suy thận ở bà bầu có thể gây ngăn cản quá trình lọc và chuyển hóa chất dinh dưỡng, gây suy dinh dưỡng cho thai nhi.
3. Suy tim: Bệnh tim như tim bẩm sinh hoặc suy tim có thể giảm lưu lượng máu và dẫn đến sự thiếu dinh dưỡng cho thai nhi.
4. Các bệnh lý về tiêu hóa: Các vấn đề về tiêu hóa như viêm đại tràng, cặn bã, hoặc bẹnh Crohn, có thể làm giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng từ thực phẩm.
5. Rối loạn ăn uống: Các rối loạn ăn uống như bệnh anorexia hay bulimia cũng có thể góp phần vào suy thai do thiếu dinh dưỡng cần thiết.
Suy thai có thể gây ra nhiều vấn đề, bao gồm:
- Giảm khả năng miễn dịch của thai nhi, làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng.
- Sinh non hoặc trọng lượng cơ thể của thai nhi thấp.
- Rối loạn tăng trưởng và phát triển.
- Tăng nguy cơ suy tim ở thai nhi.
- Tăng nguy cơ tử vong tử cung và tử vong sơ sinh.
Để ngăn chặn suy thai, bà bầu cần chú ý đến việc cung cấp đủ dinh dưỡng cho thai nhi bằng cách ăn uống cân đối và đa dạng, bổ sung các loại vitamin và khoáng chất khi được chỉ định bởi bác sĩ, và điều chỉnh lối sống lành mạnh. Nếu có bất kỳ dấu hiệu suy thai nào, nên tìm kiếm sự giúp đỡ y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Suy thai có thể được phân loại thành hai loại chính: suy thai cấp và suy thai mãn tính.
1. Suy thai cấp: Đây là trường hợp suy thai xảy ra trong khoảng thời gian ngắn, thường là trong suốt thai kỳ. Nguyên nhân chính của suy thai cấp bao gồm:
- Ói mửa quá mức: Trong trường hợp suy thai cấp do ói mửa quá mức, bà bầu không thể giữ lại thức ăn trong dạ dày và chất cần thiết cho thai nhi.
- Nghiện chất: Nếu bà bầu có thói quen sử dụng chất gây nghiện như rượu, thuốc lá hoặc ma túy, sẽ gây suy thai cấp và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thai nhi.
- Bệnh lý: Một số bệnh lý như nhiễm trùng nghiêm trọng, bệnh viêm gan, bệnh tiểu đường và bệnh gan nhiễm mỡ có thể gây suy thai cấp.
2. Suy thai mãn tính: Đây là trường hợp suy thai kéo dài trong thời gian dài, thường là do sự suy dinh dưỡng liên tục hoặc không điều chỉnh trong suốt thai kỳ. Nguyên nhân chính của suy thai mãn tính bao gồm:
- Chế độ ăn uống không cân đối: Việc không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cần thiết từ thực phẩm có thể dẫn đến suy thai mãn tính.
- Bệnh lý tiêu hóa: Nhiều bệnh lý tiêu hóa như viêm ruột, viêm đại tràng và bệnh Crohn có thể làm giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng và gây suy thai mãn tính.
- Yếu tố tâm lý: Stress, trầm cảm và rối loạn ăn uống có thể gây suy thai mãn tính.
Để chẩn đoán suy thai, bác sĩ sẽ tiến hành một loạt các xét nghiệm và theo dõi sự phát triển của thai nhi. Đối với trường hợp suy thai cấp, việc điều trị sẽ tập trung vào việc điều trị nguyên nhân gây ra. Đối với trường hợp suy thai mãn tính, việc cung cấp một chế độ ăn uống cân đối và bổ sung dinh dưỡng phù hợp sẽ là cốt lõi của việc điều trị.
Nếu bạn hoặc ai đó quanh bạn đang gặp vấn đề về suy thai, nên tìm kiếm sự tư vấn và hỗ trợ y tế từ các chuyên gia để có được chẩn đoán chính xác và kế hoạch điều trị phù hợp.
Sự phát thải của các khí vi lượng và hạt bụi từ việc đốt sinh khối Dịch bởi AI Global Biogeochemical Cycles - Tập 15 Số 4 - Trang 955-966 - 2001
Trong thập kỷ qua, một kho thông tin lớn về phát thải từ các loại đốt sinh khối khác nhau đã được tích lũy, phần lớn là kết quả từ các hoạt động nghiên cứu của Chương trình Địa cầu Sinh học Quốc tế/ Hóa học Khí quyển Toàn cầu Quốc tế. Tuy nhiên, thông tin này chưa sẵn có một cách dễ dàng đối với cộng đồng hóa học khí quyển vì nó bị phân tán trên một số lượng lớn các tài liệu và được báo cáo bằng nhiều đơn vị và hệ thống tham chiếu khác nhau. Chúng tôi đã đánh giá một cách có phê phán những dữ liệu hiện có và tích hợp chúng vào một định dạng nhất quán. Dựa trên phân tích này, chúng tôi trình bày một tập hợp các hệ số phát thải cho một loạt các loại chất phát thải từ các vụ cháy sinh khối. Trong những trường hợp dữ liệu không có sẵn, chúng tôi đã đề xuất các ước lượng dựa trên các kỹ thuật ngoại suy thích hợp. Chúng tôi đã đưa ra các ước lượng toàn cầu về phát thải từ cháy rừng đối với các loại chất quan trọng phát thải từ những kiểu đốt sinh khối khác nhau và so sánh các ước lượng của chúng tôi với kết quả từ các nghiên cứu mô hình hóa ngược.
#đốt sinh khối #phát thải khí #hóa học khí quyển #hệ số phát thải #kỹ thuật ngoại suy #cháy rừng #mô hình hóa ngược
Dự đoán suy giảm nhận thức trong người cao tuổi bình thường với phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron 2-[18F]fluoro-2-deoxy-D-glucose (FDG/PET) Dịch bởi AI Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 98 Số 19 - Trang 10966-10971 - 2001
Các nghiên cứu về bệnh lý thần kinh cho thấy bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) và bệnh Alzheimer thường có các tổn thương ở vùng vỏ nào entorhinal (EC), hồi hải mã (Hip) và vỏ não thái dương. Các quan sát liên quan với hình ảnh
in vivo
đã cho phép dự đoán các dấu hiệu mất trí nhớ từ MCI. Mặc dù những cá nhân có khả năng nhận thức bình thường có thể có tổn thương EC focal, anatomie này chưa được nghiên cứu như là một yếu tố dự đoán suy giảm nhận thức và thay đổi ở não. Mục tiêu của nghiên cứu FDG/PET hướng dẫn bằng MRI này là kiểm tra giả thuyết rằng trong những người cao tuổi bình thường, sự giảm chuyển hóa EC dự đoán suy giảm nhận thức và sự tham gia của Hip và vỏ não. Trong nghiên cứu dài hạn kéo dài 3 năm trên 48 người cao tuổi bình thường khỏe mạnh, 12 cá nhân (tuổi trung bình 72) đã biểu hiện suy giảm nhận thức (11 trở thành MCI và 1 thành bệnh Alzheimer). Các nhóm đối chứng không bị suy giảm được so sánh với nhau về kiểu gen apolipoprotein E, tuổi, giáo dục và giới tính. Tại thời điểm cơ sở, các giảm chuyển hóa ở EC đã chính xác dự đoán sự chuyển từ bình thường sang MCI. Trong số những người bị suy giảm, EC cơ sở đã dự đoán giảm chuyển hóa bộ nhớ và vỏ não thái dương theo thời gian. Tại thời điểm theo dõi, những người bị suy giảm đã biểu hiện suy giảm trí nhớ và giảm chuyển hóa ở vỏ não thùy thái dương và Hip. Trong số những đối tượng này, những người mang gene apolipoprotein E E4 thể hiện sự giảm chuyển hóa mạnh mẽ ở vỏ não thái dương theo thời gian. Tóm lại, các dữ liệu này chỉ ra rằng giai đoạn EC của sự tham gia não có thể được phát hiện ở người cao tuổi bình thường và dự đoán suy giảm nhận thức và chuyển hóa não trong tương lai. Sự giảm chuyển hóa tiến triển liên quan đến E4 có thể là nguyên nhân của sự tăng nhạy cảm với chứng sa sút trí tuệ. Cần các nghiên cứu tiếp theo để ước tính rủi ro cá nhân và xác định cơ sở sinh lý của những thay đổi METglu phát hiện trong khi nhận thức vẫn bình thường.
#suy giảm nhận thức #Alzheimer #MCI #vùng vỏ nào entorhinal #hồi hải mã #vỏ não thái dương #FDG/PET #người cao tuổi #chuyển hóa não #gene apolipoprotein E
Mối liên hệ giữa đa dược phẩm và đa dược phẩm quá mức với trạng thái suy yếu: một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp Dịch bởi AI European Geriatric Medicine - Tập 10 - Trang 9-36 - 2018
Nghiên cứu nhằm: (1) mối liên hệ cắt ngang giữa đa dược phẩm, đa dược phẩm quá mức và sự hiện diện của tình trạng suy yếu hoặc gần suy yếu; (2) nguy cơ xảy ra tình trạng gần suy yếu hoặc suy yếu ở những người dùng đa dược phẩm, và ngược lại. Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp đã được thực hiện theo hướng dẫn PRISMA. Chúng tôi đã tìm kiếm trên PubMed, Web of Science và Embase từ ngày 01/01/1998 đến ngày 5/2/2018. Các ước tính gộp được thu được thông qua các mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên và trọng số Mantel-Haenszel. Độ đồng nhất được đánh giá bằng thống kê I2 và thiên kiến xuất bản được kiểm tra bằng các bài kiểm tra của Egger và Begg. Ba mươi bảy nghiên cứu đã được đưa vào phân tích. Tỷ lệ gộp của đa dược phẩm ở những người có tình trạng gần suy yếu và suy yếu lần lượt là 47% (95% CI 33–61) và 59% (95% CI 42–76). Tỷ lệ odds gia tăng của đa dược phẩm đã được quan sát thấy ở những người gần suy yếu (tỷ lệ odds gộp OR = 1.52; 95% CI 1.32–1.79) và suy yếu (tỷ lệ odds gộp OR = 2.62, 95% CI 1.81–3.79). Đa dược phẩm quá mức cũng gia tăng ở những người gần suy yếu (OR = 1.95; 95% CI 1.41–2.70) và suy yếu (OR = 6.57; 95% CI 9.57–10.48) so với những người có sức khỏe tốt. Chỉ có bảy nghiên cứu ngang đã báo cáo dữ liệu về nguy cơ xảy ra tình trạng gần suy yếu hoặc suy yếu ở những người có đa dược phẩm ban đầu. Một tỷ lệ odds cao hơn có ý nghĩa trong việc phát triển tình trạng gần suy yếu đã được phát hiện ở những người khỏe mạnh với đa dược phẩm (tỷ lệ odds gộp OR = 1.30; 95% CI 1.12–1.51). Chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào điều tra về tần suất đa dược phẩm ở những người có tình trạng gần suy yếu/suy yếu. Đa dược phẩm là phổ biến ở những người gần suy yếu và suy yếu, và những cá nhân này cũng có khả năng cao hơn để sử dụng các chế độ thuốc cực đoan, tức là đa dược phẩm quá mức, so với những người cao tuổi khỏe mạnh. Cần nhiều nghiên cứu hơn để điều tra mối quan hệ nguyên nhân giữa đa dược phẩm và các hội chứng suy yếu, từ đó xác định các cách để đồng thời giảm gánh nặng thuốc và tình trạng gần suy yếu/suy yếu ở những cá nhân này. CRD42018104756.
#đa dược phẩm #đa dược phẩm quá mức #tình trạng suy yếu #nghiên cứu tổng quan #phân tích tổng hợp
Tăng cường gãy xương hình thái đốt sống ở bệnh nhân suy cận giáp sau phẫu thuật mặc dù mật độ khoáng xương bình thường Dịch bởi AI BMC Endocrine Disorders - Tập 13 Số 1 - 2013
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Cơ chế kích hoạt tái tạo xương của hormone cận giáp (PTH) phụ thuộc rất nhiều vào thời gian tiếp xúc của tế bào xương với nồng độ hormone. Mức PTH cao kéo dài kích hoạt quá trình phân giải, trong khi các đợt tăng cường tạm thời kích thích quá trình đồng hóa. Những ảnh hưởng của chứng suy cận giáp (PhPT) lên xương vẫn chưa được biết đến. Mục tiêu của nghiên cứu là để khảo sát tác động của PhPT đến mật độ khoáng xương (BMD), tần suất gãy đốt sống ở mức độ tiềm ẩn và hình thái học xương hàm dưới.
#Bệnh nhân suy cận giáp #mật độ khoáng xương #gãy đốt sống #hình thái học xương hàm dưới
KẾT QUẢ SẢN KHOA Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ ĐẺ ĐỦ THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNGMục tiêu: nhận xét kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ đẻ đủ tháng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2019-2020.Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐTK mổ đẻ (78,29%) cao hơn so với tỷ lệ đẻ thường. Các nguyên nhân ĐTĐTK đẻ mổ thường gặp là do nguyên nhân có tiền sử mổ cũ (32,03%), nguyên nhân do thai to chiếm 14,84%.Cân nặng sơ sinh trung bình của nhóm thai phụ ĐTĐTK đẻ đủ tháng là 3433 ± 442g. Có 12 trẻ có cân nặng từ 4000g trở lên, chiếm 7,05%. Phần lớn trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK không có biến chứng sau đẻ, chiếm tỷ lệ 81,64%. Có 4 trẻ bị hạ glucose máu (2,35%), 22 trẻ có bị vàng da sau sinh (12,94%). Tỷ lệ trẻ sơ sinh có chỉ số Apgar sau 1 phút và sau 5 phút <7 điểm chiếm tỷ lệ thấp (lần lượt là 2,94% và 1,18%).Kết luận: thai phụ ĐTĐTK có tỷ lệ mổ đẻ cao. Biến chứng ở trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK thường gặp là vàng da sau sinh, biến chứng ít gặp hơn là hạ glucose máu và suy hô hấp sau sinh.
#kết quả sản khoa #đái tháo đường thai kỳ #hạ đường máu #suy hô hấp sau sinh #vành da sau sinh
TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN TÍNH CÓ LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊNĐặt vấn đề: Bệnh nhân suy thận mạn và đặc biệt là nhóm bệnh nhân có lọc máu chu kỳ, liên quan chặt chẽ tới tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân do cơ thể giảm protein và giảm năng lượng dự trữ. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kì tại bệnh viện Trung Ương Thái nguyên năm 2020.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả, thiết kế cắt ngang trên toàn bộ bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kỳ tại khoa Nội Thận tiết niệu và lọc máu bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ bệnh nhân bị thiếu năng lượng trường diễn (BMI < 18,5) chiếm tỷ lệ khá cao (27,8%). Thời gian điều trị của người bệnh càng dài thì tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn càng cao (đánh giá bằng chỉ số BMI) với p < 0,05. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA có tới 58,3% bệnh nhân bị SDD nhẹ, 2,2% bệnh nhân bị SDD nặng.
#Suy dinh dưỡng #suy thận mạn tính #lọc máu chu kỳ #bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
Nghiên cứu ảnh hưởng của suy giáp thai kỳ đến mẹ và thai nhi tại Bệnh viện Phụ Sản Hải PhòngĐặt vấn đề: Bệnh suy tuyến giáp trạng là bệnh nội tiết phổ biến ở phụ nữ mang thai đứng thứ 2 sau bệnh đái tháo đường. Những rối loạn chức năng tuyến giáp ở thời điểm mang thai không chỉ ảnh hưởng đến mẹ mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi và của đứa trẻ sau này. Mục tiêu: Nghiên cứu ảnh hưởng của suy giáp trong thời kì mang thai đến mẹ và thai nhi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 2100 thai phụ được sàng lọc suy giáp bằng các xét nghiệm TSH, FT4, Ab-TPO. Theo dõi ảnh hưởng của suy giáp ở nhóm bệnh nhân suy giáp và không bị suy giáp trong quá trình mang thai và sau đẻ. Kết quả: Thai phụ suy giáp chiếm tỷ lệ 2,8%. Thai phụ suy giáp làm tăng nguy cơ rau bong non, tăng huyết áp, tiền sản giật, sảy thai, sinh non. Chưa thấy tăng nguy cơ cân nặng thấp, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh. Kết luận: Thai phụ suy giáp làm tăng nguy cơ rau bong non, tăng huyết áp, tiền sản giật, sảy thai, sinh non.
#suy giáp #mang thai suy giáp
THỰC TRẠNG DINH DƯỠNG Ở HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG GANG THÉP THÁI NGUYÊN NĂM 2020Đặt vấn đề: Học sinh trung học phổ thông là đối tượng cần quan tâm vì đây là lực lượng lao động chính sau này, lứa tuổi này là lứa tuổi tiếp tục hoàn thiện về thể chất. Chính vì vậy chế độ dinh dưỡng không hợp lý có thể dẫn đến những ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe bệnh tật, khả năng học tập và giảm sút khả năng lao động sau này. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Gang Thép, thành phố Thái Nguyên năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả, thiết kế cắt ngang trên toàn bộ học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ học sinh bị suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm khá cao 12,7%: Suy dinh dưỡng mức độ vừa chiếm chủ yếu 12,0%, suy dinh dưỡng mức độ nặng chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh nữ (13,0%) cao hơn học sinh nam (12,2%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi giữa hai giới (p > 0,05). Tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm của học sinh chiếm 6,9%. Học sinh nữ (7,5%) có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn học sinh nam (6,1%). Tỷ lệ thừa cân, béo phì chiếm 13,8%. Trong đó tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh nam (17,9%) cao hơn rõ rệt ở học sinh nữ (10,6%).
#Suy dinh dưỡng #thấp còi #gày còm #thừa cân #béo phì #trường trung học phổ thông #Gang Thép #thành phố Thái Nguyên
Nhận xét tình trạng rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu của thai kỳ Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu thai kỳ và tìm hiểm các yếu tố liên quan.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 156 thai phụ mang thai 3 tháng đầu tại khoa Nội tiết – ĐTĐ- Bệnh viện Bạch Mai và phòng khám Theo yêu cầu - Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 7 năm 2015. Các tiêu chuẩn đánh giá theo khuyến cáo của Hội Tuyến Giáp Hoa kỳ năm 2011.
Kết quả: Tỷ lệ RLCNTG nói chung: 38,5%. Trong đó, cường giáp 16,7%, suy giáp 10,9%, tình trạng giảm hormon FT4 10,9%. Suy giáp trong thời kỳ mang thai liên quan với: tiền sử mắc bệnh tuyến giáp và anti-TPO dương tính. Thai phụ có tiền sử mắc bệnh tuyến giáp có nguy cơ bị suy giáp gấp 20,36 lần so với thai phụ không có tiền sử bệnh lý tuyến giáp. Thai phụ có anti-TPO (+) có nguy cơ bị suy giáp gấp 4,22 lần thai phụ có anti-TPO (-). Chưa tìm thấy mối liên quan giữa cường giáp, tình trạng giảm hormon FT4 với các yếu tố liên quan.
Kết luận: Rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu thai kỳ là khá phổ biến. Suy giáp trong thai kỳ có liên quan đến tiền sử mắc bệnh tuyến giáp và tình trạng Anti- TPO dương tính.
#Rối loạn chức năng tuyến giáp #mang thai 3 tháng đầu #suy giáp #cường giáp.
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA SAU PHẪU THUẬT TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU - BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUANNghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 51 bệnh nhân mắc ung thư đường tiêu hóa đã phẫu thuật tại Trung tâm Ung bướu của Bệnh viện trung ương Thái Nguyên với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa sau phẫu thuật tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022 và phân tích một số yếu tố liên quan. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng người trưởng thành dựa theo phân loại chuẩn của WHO năm 2006 và đánh giá PG-SGA. Kết quả nghiên cứu cho thấy theo phân loại đánh giá PG-SGA có 82,4% đối tượng nghiên cứu có tình trạng SDD nhẹ và trung bình; 3,9% đối tượng có SDD mức độ nặng. Phân loại theo BMI có 29,5% đối tượng nghiên cứu có suy dinh dưỡng, 1,9% đối tượng thừa cân. Tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giai đoạn ung thư; triệu chứng chán ăn, ăn không ngon miệng và tình trạng dinh dưỡng của nhóm đối tượng nghiên cứu (p<0,05).
#suy dinh dưỡng #ung thư tiêu hóa sau phẫu thuật #PG-SGA.